Chùa Bái Đính Ninh Bình
Chùa Bái Đính Ninh Bình được mệnh danh là ngôi chùa sở hữu nhiều kỷ lục, hiện nay Chùa đã trở thành điểm du lịch tâm linh nổi tiếng thu hút du khách khi đến với vùng đất cố đô Hoa Lư. Không chỉ là nơi linh thiêng, chùa còn gây ấn tưởng bởi kiến trúc rất hoành tráng, nguy nga có một không hai. Do Đó, chắc chắn một điều đây là một điểm đến không thể thiếu trong sổ tay những nơi cần đến của bạn.
Khám Phá Chùa Bái Đính Ninh Bình
Giới Thiệu Chùa Bái Đính Ninh Bình
Vị Trí Chùa Bái Đính Ninh Bình
Địa Chỉ: Chùa nằm tại cửa ngõ phía tây khu di tích cố đô Hoa Lư, bên cạnh quốc lộ 38B, thuộc xã Gia Sinh - Gia Viễn - tỉnh Ninh Bình, cách thành phố Ninh Bình 15 km, cách thành phố Hà Nội 95 km. Chùa Bái Đính nằm ngay phía bắc của quần thể di sản thế giới Tràng An.


Lịch sử hình thành Chùa Bái Đính
Hơn 1000 năm trở về trước, tại kinh đô Hoa Lư đã có ba triều đại Vua nối tiếp nhau ra đời: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý. Ba triều đại phong kiến này đều rất quan tâm đến đạo Phật và coi đạo Phật là Quốc giáo. Do đó tại Ninh Bình có rất nhiều chùa cổ, trong đó có ngôi chùa Bái Đính, trên dãy núi Tràng An.
Quần thể chùa gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Ngôi Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư. Kiến trúc chùa mới khá hoành tráng và đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc truyền thống. Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm du lịch nổi tiếng.
Khu chùa Bái Đính mới được các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất khu vực Đông Nam Á. (tuy nhiên, nếu theo Sách kỷ lục Guinness thì ngôi chùa lớn nhất thế giới và Đông Nam Á là chùa Borobudur tại Indonesia)

Quần thể chùa gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Ngôi Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư. Kiến trúc chùa mới khá hoành tráng và đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc truyền thống. Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm du lịch nổi tiếng.
Khu chùa Bái Đính mới được các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất khu vực Đông Nam Á. (tuy nhiên, nếu theo Sách kỷ lục Guinness thì ngôi chùa lớn nhất thế giới và Đông Nam Á là chùa Borobudur tại Indonesia)

Được xem là cố đô của ba triều đại nhà Đinh, nhà Lê và Lý. Cố Đô cũng là 1 trong những triều đại quan tâm đến Phật giáo nhất. Đấy chính là lý do mà đến nay vùng đất này vẫn còn gìn giữ rất nhiều ngôi chùa linh thiêng, cổ kính, tiêu biểu nhất phải nhắc đến là chùa Bái Đính Ninh Bình.
Chùa Có tuổi đời hơn 1.000 năm tuổi và có ý nghĩa đối với lịch sử văn hóa tâm linh. Đây là nơi thiền sư Nguyễn Minh Không chọn để xây dựng tượng Phật và trở thành điểm tu hành. Ngoài ra, đây còn là nơi được vua Đinh Tiên Hoàng chọn lập đàn cầu tế mong đánh thắng giặc, đem lại hòa bình cho nhân dân trước khi dẹp loạn 12 sứ quân.
Đến nay, chùa vẫn còn lưu giữ nhiều giấu ấn cũng như chứng tích của Phật giáo Việt Nam dưới các triều đại một thời. Toàn thể chùa có diện tích lên tới 1700 ha, bao gồm một ngồi chùa cổ từ xưa rộng 27 ha và một khu chùa mới xây được đưa vào khánh thành từ năm 2003 rộng 80 ha, được chia thành nhiều hạng mục như: cổng Tam Quan nội/ngoại; điện Quan Thế Âm; điện Tam Thế; điện Pháp chủ; Bảo tháp; Tháp chuông… Với công trình kiến trúc kỳ vĩ, nó được coi là ngôi chùa có nhiều “cái nhất” và giữ nhiều kỷ lục nhất của nước ta, sẽ khiến bạn bất ngờ khi đến tham quan.
Đến năm 1997, Chùa được công nhận là di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng cấp quốc gia. Do đó, hằng năm chùa đã đón lượng lớn du khách và Phật tử đến thăm. Nếu có 1 lần ra bắc thì đừng quên ghé lại nơi đây nhé!
Xem Thêm Tuyệt Tình Cốc Ninh Bình
Chùa Có tuổi đời hơn 1.000 năm tuổi và có ý nghĩa đối với lịch sử văn hóa tâm linh. Đây là nơi thiền sư Nguyễn Minh Không chọn để xây dựng tượng Phật và trở thành điểm tu hành. Ngoài ra, đây còn là nơi được vua Đinh Tiên Hoàng chọn lập đàn cầu tế mong đánh thắng giặc, đem lại hòa bình cho nhân dân trước khi dẹp loạn 12 sứ quân.
Đến nay, chùa vẫn còn lưu giữ nhiều giấu ấn cũng như chứng tích của Phật giáo Việt Nam dưới các triều đại một thời. Toàn thể chùa có diện tích lên tới 1700 ha, bao gồm một ngồi chùa cổ từ xưa rộng 27 ha và một khu chùa mới xây được đưa vào khánh thành từ năm 2003 rộng 80 ha, được chia thành nhiều hạng mục như: cổng Tam Quan nội/ngoại; điện Quan Thế Âm; điện Tam Thế; điện Pháp chủ; Bảo tháp; Tháp chuông… Với công trình kiến trúc kỳ vĩ, nó được coi là ngôi chùa có nhiều “cái nhất” và giữ nhiều kỷ lục nhất của nước ta, sẽ khiến bạn bất ngờ khi đến tham quan.
Đến năm 1997, Chùa được công nhận là di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng cấp quốc gia. Do đó, hằng năm chùa đã đón lượng lớn du khách và Phật tử đến thăm. Nếu có 1 lần ra bắc thì đừng quên ghé lại nơi đây nhé!
Xem Thêm Tuyệt Tình Cốc Ninh Bình
Kiến Trúc Chùa Bái Đính
Khám Phá Khu Chùa Bái Đính Mới
Như đã nói ở trên, toàn thể chùa Bái Đính hiện có diện tích 1700 ha, bao gồm khu chùa Bái Đính cổ, khu chùa Bái Đính mới và các khu vực như: công viên văn hoá và học viện Phật giáo, khu đón tiếp và công viên cảnh quan, đường giao thông và bãi đố xe, khu hồ Đàm Thị, hồ phóng sinh...Và hiện nay vẫn đang được tiếp tục xây dựng.
Chùa Bái Đính mới hay còn được gọi Bái Đính tân tự, có diện tích rộng lên đến 80 ha, nằm phía bên kia núi so với chùa cổ và ở phía tây cố đô Hoa Lư. Đây là một công trình kiến trúc lớn gồm nhiều hạng mục, kiến trúc chính:
Chùa Bái Đính mới hay còn được gọi Bái Đính tân tự, có diện tích rộng lên đến 80 ha, nằm phía bên kia núi so với chùa cổ và ở phía tây cố đô Hoa Lư. Đây là một công trình kiến trúc lớn gồm nhiều hạng mục, kiến trúc chính:
- điện Tam Thế
- điện Pháp Chủ
- điện Quan Âm
- Bảo Tháp
- Tháp Chuông
- Tượng phật Di Lặc
- các công trình hạ tầng, phụ trợ, khu học viện Phật giáo, khu đón tiếp, Tam quan ngoại, Tam quan nội... được xây dựng trong nhiều giai đoạn khác nhau.
Chủ trì thiết kế kiến trúc của chùa Bái Đính là Giáo sư, Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính - Phó Chủ tịch Hội kiến trúc sư Việt Nam, nguyên Giám đốc Trung tâm thiết kế và tu bổ di tích Trung ương (Viện Bảo tồn di tích Việt Nam).

Kiến trúc khu chùa mới nổi bật với những hình khối lớn cực lớn, hoành tráng mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt Nam như: sử dụng nguyên vật liệu chính ở địa phương (đá xanh Ninh Bình, gỗ tứ thiết), ngói men Bát Tràng màu nâu sẫm... Điều khác biệt nhất ở kiến trúc chùa Bái Đính thể hiện ở vòm mái màu nâu sẫm cong vút hình đuôi chim phượng, nó không giống với nét thẳng thô của chùa Trung Quốc. Các chi tiết trang chí kiến trúc chùa cũng mang đậm dấu ấn của các làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Việt Nam. Chùa Bái Đính khi xây dựng được gọi là "đại công trường" với 500 nghệ nhân gồm rất nhiều tổ thợ đến từ những làng nghề nổi tiếng như mộc Phúc Lộc, trạm khắc đá Ninh Vân, đúc đồng Ý Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng, trạm bạc Đồng Xâm... các nghệ nhân này được sử dụng các vật liệu địa phương như gỗ lim, đá xanh Ninh Bình, ngói men Bát Tràng... để tạo ra nét thuần Việt trong kiến trúc chùa Bái Đính.
Điều đặc biệt ở công trường xây dựng chùa Bái Đính là không gian nơi đây luôn mở. Ngay từ khi xây dựng với đại tượng Phật còn đặt ở ngoài trời đã thu hút rất đông các đoàn người hành hương chiêm bái. Du khách có thể đi bất cứ nơi nào để quan sát các bộ phận công trình đang hình thành.
Đặc điểm kiến trúc Chùa Bái Đính Mới
Về vật liệu xây dựng, hệ thống cột và kèo ở cổng Tam Quan, hành lang La Hán và điện Quan Âm được làm bằng gỗ tứ thiết, các công trình lớn hơn làm bê tông giả gỗ. Tất cả các mái đều sử dụng ngói men Bát Tràng Việt Nam, kiến trúc ba tầng mái cong vút hình đuôi của chim phượng. Về bố cục, các kiến trúc chính như cổng Tam Quan, tháp chuông, điện Quan Âm, điệp Pháp Chủ, điện Tam Thế lần lượt có chiều cao đỉnh mái là 16.5 m, 22 m, 14.8 m, 30 m, 34 m với diện tích bên trong là 560 m², 225 m², 730 m², 2060 m² và 2370 m².
Về các đối tượng suy tôn, cổng Tam Quan với hai tượng Hộ pháp (ông Thiện và ông Ác) bằng đồng cao 5.5 m, nặng 12 tấn và 8 pho tượng Kim Cương. Hành lang La Hán gồm 234 gian nối liền với hai đầu Tam Quan, có chiều dài 1052 m và chiều cao sàn nâng dần theo độ dốc của sườn đồi là nơi bố trí 500 tượng La Hán bằng đá xanh Ninh Bình nguyên khối cao tới 2.5 m, nặng khoảng 4 tấn. Mỗi vị La Hán có một dáng vẻ khác nhau để miêu tả sự sống trần thế. Tháp chuông có 3 tầng mái, mỗi tầng mái có 8 mái ghép lại, tổng cộng là 24 mái với 24 đầu đao cong vút lên, bên trong treo một quả chuông nặng 36 tấn được cấp bằng xác nhận kỷ lục: "Đại hồng chung lớn nhất Việt Nam". Phía dưới quả chuông đồng này là một chiếc trống đồng lớn nặng 70 tấn nằm trên nền tháp chuông, và tiếng chuông của chùa Bái Đính vang xa đến đâu thể hiện sử phổ độ của Phật lên chúng sinh đến đó.

Các điện chính là nơi thờ Phật. Điện Quan Âm gồm 7 gian với gian giữa của điện đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt để thể hiện sự bao quát cứu vớt và phổ độ chúng sinh của Phật bà trên thế gian. Tượng Phật bà đúc bằng đồng nặng 80 tấn, cao 9.57 m được công nhận là pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng lớn nhất ở Việt Nam.Điện Pháp Chủ có 5 gian, gian giữa đặt pho tượng Phật Pháp Chủ bằng đồng cao 10 m, nặng 100 tấn, được xác nhận kỷ lục "Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng lớn nhất Việt Nam". Trong điện còn treo 3 bức hoành phi và 3 cửa võng lớn nhất Việt Nam. Điện Tam Thế tọa lạc ở trên đồi cao so với mặt nước biển là 76 m, dài 59.1 m, rộng hơn 40 m. Trong điện Tam Thế đặt 3 pho tượng Tam Thế Phật (quá khứ, hiện tại và tương lai) bằng đồng cao 7.2 m, nặng 50 tấn, được xác nhận kỷ lục: "Ngôi chùa có bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam".
Tượng Phật Di Lặc là bức tượng được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam - Vietkings công nhận là tượng lớn nhất Việt Nam, nặng 80 tấn, cao 10m, an vị trên một ngọn đồi của chùa Bái Đính. Bảo Tháp là công trình cao hơn 100 mét, với 13 tầng bảo tháp, 72 bậc cầu thang, toà bảo tháp tại Chùa Bái Đính hiện đang trưng bày xá lợi Phật linh thiêng từ Ấn Độ và Miến Điện. Trần bảo tháp được thiết kế theo phong cách Ấn Độ huyền bí. Các bức tường xung quanh bên trong tháp đều được điêu khắc các hình tượng liên quan đến Phật pháp. Hàng nghìn bức tượng nhỏ được đặt trang trí quanh bảo tháp.
Nguồn: Chùa Bái Đính
Về các đối tượng suy tôn, cổng Tam Quan với hai tượng Hộ pháp (ông Thiện và ông Ác) bằng đồng cao 5.5 m, nặng 12 tấn và 8 pho tượng Kim Cương. Hành lang La Hán gồm 234 gian nối liền với hai đầu Tam Quan, có chiều dài 1052 m và chiều cao sàn nâng dần theo độ dốc của sườn đồi là nơi bố trí 500 tượng La Hán bằng đá xanh Ninh Bình nguyên khối cao tới 2.5 m, nặng khoảng 4 tấn. Mỗi vị La Hán có một dáng vẻ khác nhau để miêu tả sự sống trần thế. Tháp chuông có 3 tầng mái, mỗi tầng mái có 8 mái ghép lại, tổng cộng là 24 mái với 24 đầu đao cong vút lên, bên trong treo một quả chuông nặng 36 tấn được cấp bằng xác nhận kỷ lục: "Đại hồng chung lớn nhất Việt Nam". Phía dưới quả chuông đồng này là một chiếc trống đồng lớn nặng 70 tấn nằm trên nền tháp chuông, và tiếng chuông của chùa Bái Đính vang xa đến đâu thể hiện sử phổ độ của Phật lên chúng sinh đến đó.

Các điện chính là nơi thờ Phật. Điện Quan Âm gồm 7 gian với gian giữa của điện đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt để thể hiện sự bao quát cứu vớt và phổ độ chúng sinh của Phật bà trên thế gian. Tượng Phật bà đúc bằng đồng nặng 80 tấn, cao 9.57 m được công nhận là pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng lớn nhất ở Việt Nam.Điện Pháp Chủ có 5 gian, gian giữa đặt pho tượng Phật Pháp Chủ bằng đồng cao 10 m, nặng 100 tấn, được xác nhận kỷ lục "Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng lớn nhất Việt Nam". Trong điện còn treo 3 bức hoành phi và 3 cửa võng lớn nhất Việt Nam. Điện Tam Thế tọa lạc ở trên đồi cao so với mặt nước biển là 76 m, dài 59.1 m, rộng hơn 40 m. Trong điện Tam Thế đặt 3 pho tượng Tam Thế Phật (quá khứ, hiện tại và tương lai) bằng đồng cao 7.2 m, nặng 50 tấn, được xác nhận kỷ lục: "Ngôi chùa có bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam".
Tượng Phật Di Lặc là bức tượng được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam - Vietkings công nhận là tượng lớn nhất Việt Nam, nặng 80 tấn, cao 10m, an vị trên một ngọn đồi của chùa Bái Đính. Bảo Tháp là công trình cao hơn 100 mét, với 13 tầng bảo tháp, 72 bậc cầu thang, toà bảo tháp tại Chùa Bái Đính hiện đang trưng bày xá lợi Phật linh thiêng từ Ấn Độ và Miến Điện. Trần bảo tháp được thiết kế theo phong cách Ấn Độ huyền bí. Các bức tường xung quanh bên trong tháp đều được điêu khắc các hình tượng liên quan đến Phật pháp. Hàng nghìn bức tượng nhỏ được đặt trang trí quanh bảo tháp.
Nguồn: Chùa Bái Đính
Khám Phá Khu Chùa Bái Đính Cũ
Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm cách điện Tam Thế của khu chùa mới khoảng 800 m về phía nam. Khu chùa này quay hướng chính tây, nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang sáng thờ Phật, rồi đến đền thờ thần Cao Sơn ở sát cuối cửa sau của hang sáng; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến động tối thờ mẫu và tiên. Nơi đây nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần.[11] Năm 1997 chùa được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng cấp quốc gia. Mặc dù khu chùa có lịch sử hình thành từ thời Đinh với đền thờ Cao Sơn trấn tây Hoa Lư tứ trấn nhưng chùa Bái Đính cổ có nhiều chi tiết kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của thời Lý.


Hang sáng, động tối
Hang sáng, nơi thờ Phật tiếp đến đền thần Cao Sơn và rừng thuốc
Bên trong động tối với các nhũ đá lộng lẫy, nơi thờ bà chúa thượng ngàn và các vị tiên
Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba: bên phải là hang sáng thờ Phật và Thần, bên trái là động tối thờ Mẫu và Tiên. Phía trên cửa hang sáng có 4 chữ đại tự "Minh Đỉnh Danh Lam" khắc trên đá do vua Lê Thánh Tông ban tặng có nghĩa là: "Lưu danh thơm cảnh đẹp". Khi lên vãn cảnh chùa trên đỉnh Bái Đính, vua Lê Thánh Tông đã tạc một bài thơ tứ tuỵêt chữ Hán được dịch như sau:

Đính Sơn danh tiếng thực cao xa
Che chở kinh thành tự thuở xưa
Nhân kiệt, địa linh nên vượng khí
Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà.
Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối hang sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền thờ thần Cao Sơn. Quay trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới động Tối. Động Tối lớn hơn hang Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Trong động tối có giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống. Các vị Tiên được thờ ở nhiều ngách trong động.
Bên trong động tối với các nhũ đá lộng lẫy, nơi thờ bà chúa thượng ngàn và các vị tiên
Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba: bên phải là hang sáng thờ Phật và Thần, bên trái là động tối thờ Mẫu và Tiên. Phía trên cửa hang sáng có 4 chữ đại tự "Minh Đỉnh Danh Lam" khắc trên đá do vua Lê Thánh Tông ban tặng có nghĩa là: "Lưu danh thơm cảnh đẹp". Khi lên vãn cảnh chùa trên đỉnh Bái Đính, vua Lê Thánh Tông đã tạc một bài thơ tứ tuỵêt chữ Hán được dịch như sau:

Đính Sơn danh tiếng thực cao xa
Che chở kinh thành tự thuở xưa
Nhân kiệt, địa linh nên vượng khí
Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà.
Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối hang sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền thờ thần Cao Sơn. Quay trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới động Tối. Động Tối lớn hơn hang Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Trong động tối có giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống. Các vị Tiên được thờ ở nhiều ngách trong động.
Đền thờ thánh Nguyễn
Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không là người sáng lập chùa Bái Đính. Ông là một thiền sư, pháp sư tài danh được vua phong Quốc sư và nhân dân tôn sùng gọi là đức thánh Nguyễn. Khu vực núi Đính nằm cách quê hương đức thánh Nguyễn Minh Không 4 km. Tương truyền khi ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra các hang động đẹp liền dựng chùa thờ Phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân.[15] Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.

Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này.

Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này.
Đền thờ thần Cao Sơn
Đi hết hang sáng có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây sưa là đền thờ thần Cao Sơn, vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm. Đinh Bộ Lĩnh từ thuở còn hàn vi đã được mẹ đưa vào sống cạnh đền sơn thần trong động. Khi xây dựng kinh đô Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng Đế cũng cho xây dựng 3 ngôi đền để thờ các vị thần trấn giữ ở 3 vòng thành mà dân gian gọi là Hoa Lư tứ trấn Theo đó, thần Thiên Tôn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Đông, thần Quý Minh trấn giữ cửa ngõ vào thành Nam và thần Cao Sơn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Tây. Ngôi đền thần Cao Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc gần giống với đền Thánh Nguyễn, cũng xây tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở Phụng Hóa (Nho Quan, Ninh Bình). Vị thần này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn.
Theo như thần phả của đền núi Hầu (xã Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng ở hành cung Vũ Lâm, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ. Thần Cao Sơn cùng với thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần trấn ngự ở ba cửa ngõ phía tây, đông và nam của cố đô Hoa Lư.
Xem Ngay>>> Kinh Nghiệm Du Lịch Ninh Bình Tự Túc
Theo như thần phả của đền núi Hầu (xã Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng ở hành cung Vũ Lâm, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ. Thần Cao Sơn cùng với thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần trấn ngự ở ba cửa ngõ phía tây, đông và nam của cố đô Hoa Lư.
Xem Ngay>>> Kinh Nghiệm Du Lịch Ninh Bình Tự Túc
Giếng ngọc
Giếng ngọc của chùa Bái Đính cổ nằm gần chân núi Bái Đính. Tương truyền đây là nơi thiền sư Nguyễn Minh Không đã lấy nước để sắc thuốc chữa bệnh cho dân và chữa bệnh cho Vua Lý Thần Tông. Giếng xây lại hình mặt nguyệt, rất rộng, có đường kính 30 m, độ sâu của nước là 6 m, không bao giờ cạn nước. Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông, có diện tích 6.000 m², 4 góc là 4 lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng "Xác nhận kỷ lục": "Ngôi chùa có giếng lớn nhất Việt Nam", ngày 12 tháng 12 năm 2007.
Giá Vé Tham Quan Chùa Bái Đính
- Giá vé tham quan : Người lớn: 250.000 VNĐ/ người lớn
- Giá vé tham quan trẻ em dưới 1m: 150.000 VNĐ/ người.
- Giá vé các dịch vụ tại chùa: Xe điện: 40.000 VNĐ/người/lượt;
- Giá vé thăm quan Bảo tháp: 60.000 VNĐ/người;
- Giá vé hướng dẫn viên: 350.000 VNĐ/tour;
- Giá vé đi đò là 200.000 VNĐ/lượt.
Một số lưu ý khi
- Đây là một điểm du lịch tâm linh nên bạn hãy lựa chọn những trang phục kín đáo, lịch sự.
- Chuẩn bị đôi giày thể thao thay vì đôi giày cao gót để bảo vệ đôi chân của bạn cũng như dễ di chuyển hơn vì địa hình nhiều đồi núi, dốc.
- Không nên xoa tay lên các bức tượng phật nhé, tuyệt đối cấm vẽ, tô lên chúng, thậm chí là những bức tường.
- Hãy nhớ bỏ tiền vào hòm để tránh gây mất mỹ quan của chùa.
Trong hành trình trở Ninh Bình ghé thăm Cố Đô Hoa Lư, thì Chùa Bái Đính chắc chắn là điểm đến mà bạn không nên bỏ qua nhé. chúc bạn có chuyến đi thú vị!
Chuyên mục
Khách sạn nổi bật
There are no promotions yet..